Trong buổi chào cờ đầu tháng, Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo Liên đội tổ chức cho buổi sinh hoạt dưới cờ nhằm ôn lại truyền thống và ý nghĩa Chiến thắng lịch sử Giải phóng Điện Biên Phủ- chấn động địa cầu với người chỉ huy là đại tướng Võ Nguyên Giáp và tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Mình vĩ đại.
Cách đây tròn 70 năm, chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, không chỉ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, mà còn là mốc son chói lọi phá tan bức thành trì tăm tối áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân đế quốc.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời, phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”. Thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ là sự kết tinh của nhiều yếu tố mà trong đó, thắng lợi của nghệ thuật quân sự độc đáo, tài tình của Đảng là yếu tố then chốt quyết định.
Nghệ thuật phân tích, đánh giá đúng âm mưu thủ đoạn của giặc Pháp.
Sau gần tám năm tiến hành chiến tranh xâm lược, thực dân Pháp bị tổn thất nặng nề, thiệt hại hơn 30 vạn quân, các kế hoạch xâm lược liên tiếp bị thất bại. Quân Pháp tăng quân lên gần 50 vạn, nhưng năng lực chiến đấu lại sút kém vì tinh thần, không giải quyết được mâu thuẫn giữa tập trung và phân tán lực lượng. Vào tháng 5/1953, Chính phủ Pháp cử Tướng Nava, Tham mưu trưởng lục quân khối Trung Âu của NATO sang làm Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy đội quân Pháp ở Đông Dương thay cho tướng Xalăng. Nava đã đề ra kế hoạch tổng quát về chính trị, quân sự nhằm đảo ngược tình thế.
Với việc thực hiện kế hoạch này, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều tin tưởng trong 18 tháng sẽ “chuyển bại thành thắng”. Khi Bộ CHQS của Pháp chọn Điện Biên Phủ với âm mưu chiếm giữ vị trí chiến lược hết sức quan trọng, bảo vệ kinh đô Luông Pha Băng, làm bàn đạp để chiếm lại Tây Bắc, uy hiếp hậu phương của ta, buộc ta phải phân tán binh lực giữ đồng bằng và rừng núi. Với lực lượng đông, hỏa lực mạnh, công sự vững chắc các tướng tá của Pháp và Mỹ xác định, đây là một “tập đoàn cứ điểm đáng sợ”, “một pháo đài bất khả xâm phạm”.
Trước âm mưu và thủ đoạn của địch, Đảng ta phân tích kế hoạch Nava chỉ là sản phẩm của thế thua, thế thất bại, chứa đựng đầy mâu thuẫn và những hạn chế không thể khắc phục được. Cụ thể là, Bộ chính trị đã phân tích và kết luận: Về phía địch: Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh, nhưng có hai nhược điểm lớn:
Thứ nhất là, tính cứng nhắc và thụ động của hệ thống phòng ngự bằng Tập đoàn cứ điểm mà quân địch đã lựa chọn: Điện Biên Phủ là một kết cấu chặt chẽ của nhiều cứ điểm nhưng trong thực tế vẫn là những cứ điểm tách rời. Khu trung tâm phía Đông, Đông Bắc khá mạnh nhưng phía Tây sơ hở. Quân địch ở đó tuy đông nhưng khi một cứ điểm bị tấn công thì lực lượng đối phó chủ yếu vẫn là lực lượng của chính cứ điểm đó chứ không phải là các cứ điểm khác. Nhược điểm này cho phép ta tập trung sức mạnh tiêu diệt và bẻ rời từng cứ điểm để làm suy yếu địch.
Thứ hai là, tính cô lập của “con nhím Điện Biên Phủ”. Điện Biên Phủ là một thung lũng lòng chảo rộng lớn nằm chơ vơ giữa mênh mông núi rừng Tây Bắc lại rất xa căn cứ hậu phương nhất là những căn cứ không quân lớn của địch, mọi việc tăng viện và tiếp tế đều phải dựa vào đường không. Nếu đường không bị cô lập hay cắt đứt nó sẽ nhanh chóng mất sức chiến đấu và việc khống chế sân bay Mường Thanh không còn là điều khó khăn với bộ đội ta lúc này.
Về phía ta: Quân đội ta chất lượng đã được nâng cao thêm một bước trong chỉnh huấn, chỉnh quân, với những kinh nghiệm sẵn có và sự tiến bộ về trang bị kỹ thuật, quân đội ta đã có thể đánh được tập đoàn cứ điểm; song vấn đề đường sá, tiếp tế cho chiến dịch đúng là một khó khăn lớn. Nhưng với quyết tâm của toàn Đảng, cả hậu phương đang chuyển động mạnh trong cải cách ruộng đất sẽ tập trung toàn lực chi viện cho tiền tuyến và nhất định cung cấp bảo đảm cho chiến dịch.
Như vậy, với việc phân tích đánh giá đúng tình hình, âm mưu thủ đoạn của thực dân Pháp mà Đảng ta nhận định: Điện Biên Phủ là cơ hội đánh tiêu diệt lớn để từ đó có thể chấm dứt chiến tranh nên Trung ương Đảng đã hạ quyết tâm phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo bước ngoặt mới trong chiến tranh trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương.
Nghệ thuật chủ động tạo lập thế trận trong Chiến dịch
Chủ động tạo lập thế trận Chiến dịch Điện Biên Phủ trên nền tảng thế trận chiến tranh nhân dân, đây chính là nét đặc sắc trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta thực hiện “kháng chiến toàn dân, toàn diện” để đánh thắng một đế quốc sừng sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự vượt trội.
Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn loại hình chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy đã trở thành nét đặc sắc về cách đánh của chiến tranh nhân dân, từ đó tạo ra thế trận tác chiến rộng khắp, đánh địch với nhiều loại hình, quy mô, từ đánh nhỏ, lẻ của lực lượng vũ trang địa phương, du kích trong vùng tạm chiếm, đến đánh tập trung của các binh đoàn chủ lực ở những địa bàn chiến lược lựa chọn.
Trong chiến tranh muốn giành thắng lợi, nhất là trong điều kiện “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh” thì ắt phải dựa vào mưu kế và thế trận. Trong đó, thế trận hiểm hóc, phức tạp làm cho địch không biết để đối phó, chia địch ra mà đánh, trói địch lại mà diệt, đánh địch cả phía trước, bên sườn, phía sau, làm cho địch đông mà hóa ít, mạnh mà hóa yếu.
Từ chủ trương chiến lược này của Trung ương Đảng, Bộ Tổng Tư lệnh đã đề ra Kế hoạch tác chiến Đông - Xuân 1953 - 1954; trong đó, xác định sử dụng một bộ phận chủ lực mở cuộc tiến công lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân địch ở Lai Châu, giải phóng hoàn toàn khu vực Tây Bắc.
Đồng thời, tiếp tục củng cố phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân trên khắp chiến trường, đặc biệt coi trọng việc đổi mới về tổ chức biên chế, trang bị, huấn luyện các đại đoàn chủ lực theo phương thức tác chiến của các loại hình chiến dịch hiện đại.
Như vậy, từ chủ trương đến hành động, công tác tạo lập thế trận trên hướng Tây Bắc được Đảng ta chủ động chuẩn bị. Đặc biệt, với nghệ thuật chỉ đạo chiến lược đúng đắn, Đảng ta đã sử dụng lực lượng tuy không nhiều nhưng đã giành thắng lợi lớn trên nhiều hướng chiến lược đã lựa chọn, nhất là trên hướng Tây Bắc, buộc địch phải tiếp tục “xé nát” khối chủ lực cơ động chiến lược, lập thêm tập đoàn cứ điểm phòng ngự ở Điện Biên Phủ, chấp nhận tác chiến với chủ lực ta ở nơi không có lợi cho chúng.
Vận dụng linh hoạt phương châm tác chiến
Đây là nét đặc sắc, sáng tạo nhất và quyết định trực tiếp đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ nghiên cứu, đánh giá tình hình thực tế và so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã cân nhắc và rất khó khăn mới đưa ra quyết định chuyển từ phương châm “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
Ngày 5/1/1954, trước khi lên đường ra mặt trận chỉ huy chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh”.
Trước đó, ngày 29/12/1953, Cơ quan tiền phương chiến dịch họp tại hang Thẩm Púa, km 15 đường Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên bàn kế hoạch tác chiến dự kiến phương châm chiến dịch, lúc này là có thể “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Đến ngày 14/1/1954, nhận thấy có điều không ổn nếu thực hiện “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, vì theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp có ba trở ngại lớn nếu tiếp tục phương châm “đánh nhanh, giải quyết nhanh”, là:
Thứ nhất, bộ đội chủ lực đến nay chỉ tiêu diệt cao nhất là tiểu đoàn địch tăng cường có công sự vững chắc ở Nghĩa Lộ. Ở Nà Sản, bộ đội mới đánh vào vị trí tiểu đoàn, công sự dã chiến nằm trong tập đoàn cứ điểm, vẫn có những trận không đạt yêu cầu, bị thương vong lớn.
Thứ hai, bộ đội chưa quen đánh hiệp đồng binh chủng bộ binh, pháo binh với quy mô lớn, chưa hề qua diễn tập, nếu thực hiện sẽ lúng túng, không phối hợp tốt. Thậm chí có trung đoàn trưởng xin trả pháo vì không biết phối hợp với bộ binh như thế nào.
Thứ ba, bộ đội vốn chỉ quen tác chiến ban đêm, ở những địa hình dễ ẩn náu, chưa có kinh nghiệm đánh công kiên ban ngày trên địa bàn bằng phẳng, nên dễ bị máy bay, pháo binh địch ném bom, bắn phá sát thương, vì tập đoàn cứ điểm nằm trên cánh đồng Mường Thanh rộng rộng khoảng 6 đến 7km, dài khoảng 15km.
Do đó, Đảng ta đã chỉ đạo chuyển phương châm tác chiến từ “đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc” quân ta đã từng bước hình thành thế trận “trói chặt” địch lại bởi hệ thống chiến hào dài hàng trăm ki-lô-mét được ken dày và ngày càng siết chặt từng cứ điểm, cụm cứ điểm, từng phân khu. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của chiến dịch.
Nghệ thuật tổ chức chiến trường phân tán lực lượng địch
Mặc dù dự kiến mở màn Chiến dịch vào ngày 25/01/1954 (sau quyết định vào ngày 13/3/1954), nhưng ngay từ ngày 6/12/1953, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã lệnh cho Đại đoàn 316 xuất hiện ở Tuần Giáo cách Điện Biên Phủ khoảng 50 km, đồng thời điều động Trung đoàn 36 của Đại đoàn 308 (đang ở Sơn La) nhanh chóng hành quân lên Nam - Tây Nam Điện Biên Phủ. Còn Trung đoàn sơn pháo 675 của Đại đoàn công pháo 351 được lệnh lên đường. Đại đoàn 312 đang đóng quân ở Yên Bái cũng hành quân lên Điện Biên Phủ.
Ngay sau khi nắm được thông tin Lai Châu bị uy hiếp, tướng Cô-Nhi lệnh cho quân Pháp đang đóng giữ ở đây thực hiện cuộc hành binh mang tên Pônlúych, rút tất cả lực lượng về Điện Biên Phủ. Ngày 12/12/1953, thị xã Lai Châu được giải phóng sau gần một thế kỷ bị thực dân Pháp chiếm đóng. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị cô lập giữa vùng rừng núi Tây Bắc rộng lớn.
Sau khi Bộ chỉ huy Pháp đưa quân lên Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ 2, Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu tiếp tục điều lực lượng các Đại đoàn 304 và 325 phối hợp với các đơn vị của Liên khu 4, Liên khu 5 và Pathét Lào mở chiến dịch tiến công địch ở Trung Lào, Hạ Lào, Tổng chỉ huy Nava lập tức điều động 6 tiểu đoàn dù cùng một tiểu đoàn pháo từ đồng bằng Bắc bộ sang Trung Lào đối phó.
Chiến dịch Trung Lào mở màn vào cuối tháng 12/1953. Sau một thời gian tiến công, toàn bộ địa bàn tỉnh Khăm Muộn với hàng vạn dân được giải phóng, phòng tuyến Trung Lào của địch bị phá vỡ. Để cứu nguy, Nava tiếp tục điều động thêm một binh đoàn cơ động và một binh đoàn không vận từ đồng bằng Bắc bộ sang, xây dựng tại Xênô, một địa điểm gần Xanakhét, trên Đường số 9, thành một tập đoàn cứ điểm mới với lực lượng lên tới 10 tiểu đoàn. Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ 3 với tên gọi là “binh đoàn tác chiến Trung Lào”.
Như vậy, từ việc “chọn nơi sơ hở mà đánh” nhằm phân tán suy yếu lực lượng địch đến quyết định nhằm vào căn cứ mạnh nhất của địch ở Điện Biên Phủ để đánh trận quyết chiến chiến lược là sự chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt, kịp thời, sáng tạo của Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với nghệ thuật quân sự độc đáo, tài tình của Đảng, sau 56 ngày đêm “khoét núi ngủ hầm, mưa dầm cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn” quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 sinh lực địch, thu toàn bộ vũ khí trang bị quân sự, bắn rơi nhiều máy bay, xóa sổ hoàn toàn tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương của quân đội Pháp.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng một đòn quyết định vào dã tâm xâm lược của kẻ thù, đánh bại kế hoạch quân sự Navarre, làm sụp đổ niềm hy vọng của các giới chính trị và quân sự ở Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Ngày 21/7/1954, Pháp buộc phải ký hiệp định Giơnevơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Thắng lợi oanh liệt của chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu đỉnh cao phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp; đồng thời là cơ sở quan trọng để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta vững tin dám đánh, quyết đánh và đánh thắng Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
(Nguồn: Báo An Ninh Thủ Đô)